luận điểm bài vợ nhặt

Soạn bài Vợ nhặt - Ngữ văn lớp 12 tập 2. Câu 3. Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt. Vợ nhặt - Kim Lân; Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi. Tuần 22 SGK Ngữ Văn 12. Rừng Xà Nu - Nguyễn Trung Thành đặc điểm loại hình và các Câu 1 (2,0 điểm) Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc - hiểu, anh/chị hãy viết đoạn văn ( khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về tác hại của việc phán xét người khác một cách dễ dàng. Câu 2 (5,0 điểm) Cho đoạn trích: "… Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Cảm nhận về bài Vợ Nhặt của Kim Lân. Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Dưới đây là những kết bài vợ nhặt được trích dẫn từ những bài thi ngữ văn cùng chủ đề đạt 9 +. Đây là tài liệu tìm hiểu thêm giúp bạn biết cách viết mở bài ngữ văn vợ nhặt sao cho hay, chinh phục giám thị đạt điểm trên cao . Kết bài vợ nhặt thứ 1. Kết bài Soạn bài Vợ nhặt Ngữ văn 12 chi tiết nhất; Soạn bài Thực hành chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận Lỗi liên quan đến việc nêu luận điểm Câu 1 (trang 194, sgk Ngữ văn 12, tập 1) a. Luận điểm chưa rõ ràng, nội dung trùng lặp, Không phát triển ý. b. mengapa minyak bumi tidak dapat dipisahkan kedalam komponen komponen murninya. VỢ NHẶT - BÀI THI ĐẠT ĐIỂM 10 KÌ THI ĐẠI HỌC 2005 Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân đã trở thành một kiệt tác văn học Việt Nam. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư, khắc hoạ vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng cuộc sống ở 3 nhân vật ấy. Để hiểu rõ hơn, hãy cùng học văn chị Hiên tham khảo bài viết phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt đạt điểm 10 trong kì thi đại học 2005 dưới đây nhé! Đề bài Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân. Bài làm Bài làm của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang - bài văn duy nhất đạt điểm 10 đại học, cũng là một trong những bài văn hiếm hoi đạt điểm 10 Đại học Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay vào viết ngay tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Khi hòa bình lập lại 1954, nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ. Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ, giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện. Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống Nhặt vợ của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm cư ngụ ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bồng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thực liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy, trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy tình cảm của một con người, biết yêu thương, biết cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia trình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận Hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau đó khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế. Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên, từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì đã làm thị biến đổi như thế. Đó chính là tình người, là tình thương yêu, thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt đời sống con người, thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo dài đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai, thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng trầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật ấy để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp, tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khó nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật, có cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên và cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà "lòng đầy thương xót". Bà thiết nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng "Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại ấy. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt, chi tiết nồi chè cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người, nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu "Chè khoán đây - ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy. Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật Tràng, vợ Tràng và cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó. “Cái đẹp cứu vớt con người” Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy. Trên đây là toàn bộ bài viết phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống ở các nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt Kim Lân của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang, hy vọng các bạn tham khảo để chuẩn bị tốt cho các kì thi Văn nói chung và kì thi THPT quốc gia 2021 nói riêng. Để biết thêm nhiều thông tin, bài học bổ ích theo dõi ngay Học văn chị Hiên hoặc Học văn chị Hiên - Youtube Cre ST Chúc các bạn nhỏ luôn học tốt! Học văn chị Hiên - Hơn cả một bài văn Dàn ý phân tích tác phẩm Vợ nhặtDàn ý phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim LânDàn ý Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân do VnDoc biên soạn bám sát chương trình Ngữ Văn 12 sẽ giúp các em học sinh có thêm tài liệu học tập các văn bản, ôn thi học kì và luyện tập các đề văn lớp 12 có đáp tham khảo thêm nhiều đề thi và tài liệu học tập hay khác, trao đổi với thầy cô và giáo viên, mời các bạn tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp ý bài Vợ nhặt được biên soạn chi tiết nhất, đầy đủ ý nghĩa nhất về ba nhân vật chính trong truyện là nhân vật anh Tràng, nhân vật bà cụ tứ và nhân vật cô thị cùng tình huống truyện độc đáo để các em học sinh nắm được nội dung tác phẩm một cách dễ dàng quyền tài liệu thuộc về cấm mọi hành vi sao chép nhằm mục đích thương ý bài Vợ nhặt1. Mở bàiGiới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt. Kim Lân là nhà văn vô cùng thành công khi viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông chính là truyện ngắn Vợ nhặt.2. Thân bàia. Nhân vật anh Tràng• Lai lịch, ngoại hìnhTràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm hình xấu xí, thô kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.• Tính cáchTràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng ban đầu không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp sáng trong đêm đầu có khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm Anh ngoan ngoãn với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm.• Tổng kếtCuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc nhận vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của Nhân vật cô thị• Hoàn cảnh, ngoại hìnhMột người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.• Tính cách thị khi mới gặp Tràng- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoaCong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn.→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.• Sau khi trở thành vợ Tràng- Trên đường trở về nhà với TràngThị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng Nhân vật bà cụ Tứ• Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ vềKhi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”… “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra• Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụKhi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở nên buồn tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn Bà không biết lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.• Nỗi lo của bà cụ TứBà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua những ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương nhau, cố gắng vươn lên.→ Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời.• Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ TứBà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn cảnh khó khăn.→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu thương và đức hi sinhd. Tình huống truyệnBối cảnh xây dựng tình huống truyện Nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe hình và gia cảnh của Tràng khiến anh khó lấy vợ xấu xí, thô kệch, ăn nói cọc cằn, thô lỗ. Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già. →Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc là nên duyên vợ chồng mà không cần tìm hiểu, yêu đương và cưới hỏi. Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ khiến cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên. Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn " ngờ ngợ".→ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí vì nếu không phải năm đói khủng khiếp thì người ta không thèm lấy một người như Tràng.• Giá trị hiện thực tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói+ Cái đói dồn đuổi con người người chết như ngả rạ…+ Cái đói bóp méo cả nhân cách theo không người ta về làm vợ.+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.→ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.• Giá trị nhân đạoTình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật anh Tràng đối với cô thị, bà cụ Tứ với người con dâu và giữa 3 người họ với rất trân trọng người "vợ nhặt" của chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt" không còn đanh đá, chỏng lỏn mà thay vào đó là cô vợ đảm đang, biết lo toan, vun vén việc yêu thương con của bà cụ Tứ Bà luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.→ Dù cho cuộc sống có nghèo khổ, khắc nghiệt thế nào thì ở họ vẫn tràn ngập tình yêu thương và hi vọng về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Cái đói có thể làm họ nghèo nàn, xơ xác về thể chất nhưng tình cảm và tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương dành cho nhau thì không cái đói nào có thể làm lu Kết bàiKhái quát lại nội dung, giá trị của tác phẩm và liên hệ thực các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôiTổng hợp 150 đoạn văn nghị luận xã hội 200 chữNghị luận xã hội về trí và nhânĐoạn văn nghị luận xã hội 200 chữNghị luận xã hội 200 chữ về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộcTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Dàn ý Vợ nhặt. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Để học tốt Địa lý 12, Giải Toán 12 nâng cao, Tiếng Anh lớp 12 mới, Môn Vật lý 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. Tài liệu hướng dẫn làm bài văn phân tích nhân vật Thị người vợ nhặt do Đọc Tài Liệu biên soạn gồm gợi ý cách làm bài, dàn ý chi tiết cùng một số bài văn hay phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim tham khảo ngay...I. Hướng dẫn phân tích nhân vật Thị người vợ nhặtĐề bài Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Phân tích yêu cầu đề bài- Yêu cầu về nội dung phân tích nhân vật Thị người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ Phạm vi tư liệu, dẫn chứng từ ngữ, chi tiết, hình ảnh,... liên quan đến nhân vật người vợ nhặt trong truyện Vợ nhặt của Kim Phương pháp lập luận chính phân Luận điểm chính phân tích nhân vật Thị- Luận điểm 1 Giới thiệu lai lịch, hoàn cảnh xuất Luận điểm 2 Chân dung ngoại hình biến dạng bởi cái khổ của Thị- Luận điểm 3 Những phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của Tóm tắt nhân vật Thị- Thị là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa, thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn Thị xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên gặp Tràng, thị chỉ gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, nhưng gặp lần hai, anh không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con Số phận nghèo đói - tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945; may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe dọa của sự đói Phẩm chất Có khát vọng sống mãnh liệt, ý tứ và nết na, có niềm tin vào tương Lập dàn ý chi tiết phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt1. Mở bài- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm+ Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.+ "Vợ nhặt" là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của Kim Khái quát về nhân vật người vợ nhặt Một trong những nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt - đại diện cho những nạn nhân xấu số của nạn đói năm Thân bài phân tích nhân vật Thị chi tiếta Khái quát về truyện ngắn- Hoàn cảnh sáng tác Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, Kim Lân đã dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn Giá trị nội dung tác phẩm Truyện ngắn không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ, ngay trên bờ vực của cái chết họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn Phân tích nhân vật Thị* Luận điểm 1 Lai lịch, xuất thân và hoàn cảnh của Thị- Không có quê hương gia đình -> nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt” -> cho thấy sự rẻ rúng của con người trong cảnh Hoàn cảnh+ Không việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, bị nạn đói dồn dập đẩy đang trên bờ vực cái chết.+ Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm chị đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng=> Thị là nạn nhân của nạn đói với số phận bi thảm, đáng thương.* Luận điểm 2 Chân dung ngoại hình của Thị- Ngoại hình+ Quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp+ Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.+ Cái ngực gầy lép nhô lên=> Ngoại hình không mấy dễ nhìn, là hiện thân của sự nghèo đói, khốn Hành động, cử chỉ+ Lần thứ nhất, khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ -> đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.+ Lần thứ haiThị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơnKhi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về thật -> Trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.=> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người, khiến người ta mất đi cả lòng tự trọng, sĩ diện và sự e thẹn, dịu dàng vốn có của người phụ nữ.* Luận điểm 3 Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của Thị- Có khát vọng sống mãnh liệt+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội Thị là người ý tứ và nết na+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con Thị còn là người có niềm tin vào tương lai kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.=> Nhận xét chung Nhân vật người vợ nhặt là nhân vật thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm, tiêu biểu cho những người nghèo khổ, khốn cùng bị cái đói, cái chết đe dọa, dồn đẩy đến bước đường cùng. Thị luôn khao khát hạnh phúc gia đình, đem đến làn gió tươi sáng, ấm áp cho gia đình anh Tràng và cả người dân ở xóm ngụ cư trong hoàn cảnh bi đát Đặc sắc nghệ thuật- Xây dựng tình huống truyện độc Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn- Dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức Kết bài phân tích nhân vật thị- Khái quát chân dung, vẻ đẹp của nhân vật người vợ Nêu cảm nhận của em về nhân Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật thị người vợ nhặtIII. TOP 5 bài văn hay phân tích nhân vật thị trong Vợ nhặtSau đây, mời các em tham khảo một số bài văn hay do Đọc tài liệu sưu tầm, tổng hợp được phân tích nhân vật Thị người vợ nhặt chi tiết và đầy đủ. Hi vọng sẽ phần nào giúp các em củng cố lại kiến thức về nhân vật cũng như có thêm vốn từ ngữ phong phú trước khi chắp bút hoàn thiện bài văn của riêng Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt ngắn gọn nhất bài số 1Trong tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân, mặc dù không là nhân vật trung tâm nhưng người vợ nhặt lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ câu chuyện. Có thể nói rằng, giá trị thực tế và nhân văn của tác phẩm được hoàn thiện hơn nhờ có nhân vật vợ nhặt hoàn toàn "trắng tay" trong khi nhân vật Tràng vẫn còn mẹ già, sống trong xóm ngụ cư và có một công việc để kiếm sống qua ngày, chờ đến lúc xoá tan được cái đói, cái khổ. Thị tha phương cầu thực với bộ quần áo trên người là tài sản giá trị nhất. Hình dáng của người phụ nữ này hiện lên vô cùng thảm thương "cái ngực lép nhô lên", “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp đi”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, những con mắt thiếu sức sống, "trũng hoáy" lại. Trong không khí ảm đạm, nặng nề, mùi ẩm thối từ rác rưởi và mùi gây của xác người vẩn lên, "người chết như ngả rạ", "người sống xanh xao như những bóng ma". Dường như cánh cửa của cái chết đang từ từ mở ra với chỉ có ngoại hình diện mạo biến đổi mà tính nết và nhân cách của thị cũng trải qua những thay đổi đáng lo ngại theo hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, không ai có thể ngờ rằng người con gái đó sẵn sàng đánh đổi cả danh dự của bản thân chỉ vì miếng ăn. Lần đầu tiên nghe thấy lời đùa của Tràng, thị vội vàng chạy tới, cười híp mắt. Nhưng sự trơ trẽn còn được đẩy lên một tầm cao mới trong gặp lại thứ hai, thị "sưng xỉa" tiến thẳng đến chỗ Tràng mà đó, khi được Tràng đãi ăn bánh đúc thật, mọi sự dịu dàng và e thẹn của thị đã biến mất hoàn toàn, thị chỉ cắm đầu vào bát bánh đúc mà ăn, không ngẩng đầu, không trò chuyện. Tất cả sự nữ tính và nhân cách của thị đã bị phá hủy chỉ vì miếng ăn. Kỳ lạ hơn nữa là khi Tràng chỉ nói bông đùa rằng "có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về" thì thị đã thật sự theo về. Cuộc hôn nhân cả một đời người mà thị đã quyết định nhanh chóng như vậy. Làm sao cái đói có thể phá hủy nhân cách, thiên tính nữ của một con người đến mức khủng khiếp như vậy?Thị sẵn sàng gửi trao thân mình cho người mới gặp đúng hai lần chỉ vì cái đói. Thậm chí cả cuộc trò chuyện chỉ mới tính trên đầu ngón tay. Sự tham sống đã khiến thị đưa ra quyết định mạo hiểm, khi có một cơ hội sống, cô cố gắng nắm bắt nó bằng mọi giá, vượt qua mọi nghi lễ, gạt bỏ sự e dè của một người phụ nữ. Hành động đó cũng thể hiện một tinh thần mạnh mẽ, lòng yêu cuộc sống và sự ham sống của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời, đó cũng là một lời lên án quyết liệt nhất về sự tàn ác của bọn đế quốc, phát xít đã hủy hoại và đẩy con người đến đường dù viết về người phụ nữ đánh mất đi những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không bao giờ coi thường hay khinh miệt mà ngược lại, ông cảm thông và trân trọng họ. Sau sự trơ trẽn đó, chúng ta vẫn cảm nhận được sự dịu dàng, ấm áp và đảm đang của một người phụ nữ. Trên đường trở về, thị cắp lấy cái thúng con, khép nép bên Tràng, ngại ngùng trước những trò đùa của trẻ con. Đặc biệt, khi gặp mẹ chồng trong khoảnh khắc đầu tiên, người con dâu mới tràn đầy lo lắng và sợ thay đổi đó cũng khiến Tràng, một chàng trai ngờ nghệch có thể nhận ra rằng "...thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố". Thị cũng rất chăm chỉ, siêng năng. Dưới đôi bàn tay đảm đang của người phụ nữ, ngôi nhà được dọn dẹp gọn gàng, tràn đầy sức sống đây có một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính người vợ nhặt là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh và kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ đã bị cho là nhân tính bị phá hủy hoàn toàn lại là một con người có sức sống tiềm ẩn mạnh mẽ như vậy. Và không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân đã giao cho nhân vật vợ nhặt nhiệm vụ nói về những vấn đề quan trọng, về tương lai tươi sáng cho nhân vật. Bởi không có ai khác, nhân vật này có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật mang số phận bi thương nhất. Vì vậy, để nhân vật này trở thành người phát ngôn về tương lai, về hy vọng, cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim vật người vợ nhặt được đặt trong một tình huống truyện đặc biệt, trong bối cảnh cái đói và chết chóc, nhân vật bộc lộ những tính cách cá nhân, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn đóng vai trò kết nối, tạo sự liên kết liền mạch giữa các sự kiện trong toàn bộ tác phẩm. Nhân vật người vợ nhặt không chỉ là thành tựu sáng tạo thành công của Kim Lân mà còn phản ánh giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của Phân tích nhân vật Thị bài số 2Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Đó là nhân vật người ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện lên khung cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ quanh năm, lại thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế… nhọc nhằn sao kể từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót thương cho số phận con người. “Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”. Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu Tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi cuộc sống quá khó khăn, đói kém con người ta trở nên càng mệt mỏi, chán nản, từ già trẻ, gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà ghim vào những nếp nhăn, nếp chân chim, và làn da rám nắng, thân thể gầy gò quắt khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay". Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Và bỗng một hôm hắn dắt về một người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm nhỏ quen biết. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Cắp thúng con theo Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như bao nàng dâu mới khác. Về đến nhà, khi được Tràng mời ngồi thị chỉ ngồi mớm ở giường, tay vân vê và bộ mặt lộ rõ vẻ đầy lo lắng. Chắc có lẽ thị nghĩ về cuộc sống mới của hai vợ chồng, rồi cuộc đời của thị sẽ đi đến trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”. Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”. Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ nhưng vì thương con, lại một chữ “thương” mà bỏ qua tất cả để người mẹ chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một miệng ăn và bà cũng thương cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi”. Có hai tình huống xảy ra mà khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó là khi nhà ăn bữa cơm đầu tiên đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng nồi chè khoán’’ nghi ngút khói ra đặt cạnh mâm cái thời nạn đói, người chết như rạ ấy thì một bữa cơm đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong một gia đình như của Tráng. Bữa cơm bao gồm “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà ăn đều rất ngon lành’’. Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt. Người vợ vẫn ăn mà không một câu than phiền. Xuất thân của thị cũng có hơn gì ai. Thị cũng nghèo khó, gầy gò và vì tình thương mà đến làm vợ, làm con dâu nhà người ta. Thị cũng là một người vô cùng đảm đang và tháo về nhà Tràng, buổi sáng sớm tinh mơ, Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược. Dường như Thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống mới. Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. Trong bữa ăn, thị kể nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc Nhật, từ đó dấy lên bao niềm khát khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa cơm đón dâu nghèo nàn đến đáng huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa". Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể mang lại cho con. Và có lẽ trong thâm tâm người vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động thêm thương xót cho những con người trong gia đình này. Hóa ra cái đanh đá, trơ trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.>>> Tham khảo thêm một số bài văn phân tích truyện ngắn Vợ nhặt hayNghe bài văn phân tích nhân vật thị trong tác phẩm Vợ nhặt hay nhất3. Phân tích nhân vật Thị bài số 3Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”… Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa trước và sau khi về làm vợ hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói năm suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành, không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn phải là nhà văn không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn. Chân dung của thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người phụ nữ ấy chở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến thị quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng chẳng để làm sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư?Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân "Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, thị có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của thị. Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm hồn thị niềm lạc quan ấy để thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ chào đến hai lần. Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người bữa cơm đầu đón nàng dâu Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Viết về sự đổi thay trong tâm tính của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở vì thế, cả hai ý kiến nêu trên ta thấy đều đúng, xác đáng. Thị nghèo khổ, cùng đường, liều lĩnh nhưng đáng thương hơn là đáng giận bởi đằng sau cái cùng đường liều lĩnh ấy là phẩm chất ham sống, giàu lòng tự trọng và khát vọng vượt lên thảm cảnh nạn đói để được sống cho một ánh sáng ngày lại, người vợ nhặt là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai và không bao giờ mất đi niềm tin vào sự sống. Thông qua hình ảnh nhân vật Thị nhà văn như phanh phui, lột trần bộ mặt thối nát của bọn thực dân và bọn cường quyền lộng hành, chính vì tội ác của chúng mà làm thân phận con người chỉ đáng vài bát bánh đúc, chính chúng là thủ phạm hủy hoại tương lai của biết bao con người. Chính thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.>>> Tuyển tập văn hay phân tích hình ảnh người vợ nhặt trong hai lần miêu tả cách ăn4. Phân tích nhân vật người vợ nhặt bài số 4Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945. Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói "ngồi vêu ra" cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của họ tất đầu nghe Tràng hò "muốn ăn cơm trắng mấy giò...", thị bị mấy cô bạn "đẩy vai". Thị "cười như nắc nẻ" cong cớn nói với Tràng "Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?". Thị "liếc mắt cười tít" làm cho anh cu Tràng "thích lắm". Lần sau, thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói! Thị "sưng sỉa" trách Tràng là "điêu", "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì sáng "đon đả" với anh cu Tràng "Ăn thật nhá!". Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen "Hà, ngon!". Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ "Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!". Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng "làm đếch gì có vợ...", thế là thị theo về ngay, "thị về thật". Khi đứng trong cái nhà "vắng teo... rúm ró" của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài".Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc, cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi, thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"Ca daoBản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động. Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành "nàng dâu mới" của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, thị "ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia". Nghe bọn trẻ con gào lên "Anh Tràng ơi! Chông vợ hài", thị "nhíu đôi mày lại", rồi đưa tay lên "xóc xóc lại tà áo". Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng "mặt bần thần". Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt".Nghe bà cụ Tứ nói "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân", thị "vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính "hay đáo để". Cái "liếc mắt cười tít" lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu "Khỉ gió". Một lời trách nhẹ chồng "... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột". Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Sau bao tháng ngày chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng thị đã có sự đổi vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng nhưng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị "kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có "nàng dâu mới", Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa, người ta phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là người truyền tin cách trò nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật - Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể "nhặt" được!Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ở đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc. Những nguời nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"... Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm "Vợ nhặt".5. Phân tích nhân vật người vợ nhặt bài số 5Nhà văn Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1920, tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh,là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Sự nghiệp văn học của ông tuy không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn số truyện ngắn của ông được xếp vào hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX như Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí…Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế. Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì, thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để có được miếng đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người xung nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, ngheo xơ xác. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt NamQua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà nhặt – một nhân vật vô danh nhưng không vô đây là những gợi ý cách làm chi tiết và mẫu dàn ý tham khảo cùng một số bài văn hay do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn, hi vọng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình phân tích nhân vật Thị người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim khảo thêm nhiều bài văn mẫu hay lớp 12 được cập nhật thường xuyên tại Chúc các em học tốt ! Xem chi tiết hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật Tràng, gợi ý cách làm, phân tích đề, sơ đồ tư duy kèm một số bài văn mẫu tham khảo hay phân tích nhân vật anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt Kim Lân.Bạn đang xem Luận điểm bài vợ nhặtCùng tham khảo ngay…Hướng dẫn lập dàn ý phân tích nhân vật Tràng1. Phân tích đề– Kiểu bài dạng bài phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học.– Vấn đề nghị luận hoàn cảnh, tính cách, phẩm chất của nhân vật Tràng– Phạm vi dẫn chứng, tư liệu các căn cứ, hình ảnh, chi tiết, câu nói… thuộc phạm vi văn bản Vợ nhặt của Kim Lân, chủ yếu là các tình tiết xoay quanh nhân vật Tràng.– Phương pháp lập luận chính phân Xác lập luận điểm, luận cứ– Luận điểm 1 Khái quát số phận, cảnh ngộ nhân vật Tràng+ Hoàn cảnh gia đình+ Hoàn cảnh bản thân– Luận điểm 2 Vẻ đẹp tâm hồn Tràng qua tâm trạng và hành động+ Gặp gỡ và quyết định nhặt vợBạn đang xem Dàn ý phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt+ Trên đường về+ Khi về đến nhà+ Sáng hôm sau khi tỉnh dậy3. Sơ đồ tư duySơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt4. Chi tiết dàn ý phân tích nhân vật Tràng Vợ Nhặta Mở bài– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm+ Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân lao động.+ Truyện ngắn đặc sắc Vợ nhặt viết về những người nông dân trong nạn đói năm 1945– Giới thiệu nhân vật Tràng Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân giai đoạn Thân bài* Khái quát số phận, cảnh ngộ của Tràng– Hoàn cảnh gia đình là dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, kiếm sống bằng nghề đánh xe bò nuôi mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh,… -> Nạn nhân của nạn đói bị đẩy đến miệng vực của cái chết.– Hoàn cảnh bản thân+ Ngoại hình thô kệch dáng người vập vạp, thân hình to lớn, tấm lưng to rộng như lưng gấu, hai con mắt nhỏ tí, gà gà quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc, dáng đi chúi về phía trước.+ Tính cách thô mộc, ngộc nghệch gần gũi, thân thiết với dân làng và trẻ nhỏ, hay bông đùa với lũ trẻ con rồi ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch…, đôn hậu, vui vẻ, tốt bụng, thường nói cộc lốc, ngắn gọn thiếu tình cảm, không biết an ủi, chia sẻ.* Vẻ đẹp tâm hồn Tràng qua tâm trạng và hành động+ Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ– Lần gặp 1 Lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.– Lần gặp 2+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì -> Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”.-> Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ -> Sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.+ Trên đường về+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”,… -> Tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.+ Khi về đến nhà+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà -> Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ -> Biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.+ Khi bà cụ Tứ về thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.+ Sáng hôm sau khi tỉnh dậy+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà sân vườn, ang nước, quần áo,…, Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.=> Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.=> Tràng là người có niềm tin, niềm lạc quan, khao khát mãnh liệt về hạnh phúc tổ ấm gia đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đùm bọc nhau để vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và cái chết.* Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật– Đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách– Miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần Kết bài– Khái quát lại vẻ đẹp và ý nghĩa của nhân vật Tràng trong tác phẩm.– Nêu suy nghĩ của cá nhân về nhân vật.» Tham khảo những bài văn hay tuyển chọn phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ NhặtBài văn mẫu tham khảo phân tích nhân vật Tràng Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Tác phẩm đã dựng lên cuộc đời, số phận của người dân Việt Nam trong năm 1945 với nạn đói khủng khiếp khi hơn hai triệu người chết đói. Và tất cả đã được phản ánh đầy đủ thông qua nhân vật Tràng – nhân vật trung tâm của tác vật Tràng có hoàn cảnh, số phận bi đát, đáng thương tiêu biểu cho số phận của những người nông dân trước năm 1945. Nhà văn Kim Lân đã phác họa một vài nét về ngoại hình của nhân vật quai hàm bạnh ra, dáng đi ngật ngưỡng, lưng to bè như lưng gấu. Tuy chỉ là vài nét nhưng lại cho thấy sự quê mùa, thô kệch, xấu xí ở hình dáng của nhân vật này. Đồng thời hình dáng nhân vật cũng in đậm dấu ấn nghề nghiệp, quanh năm phải gồng mình kéo xe, nên dáng người thô kệch, gương mặt trở nên lam lũ, khắc dù là một người trưởng thành, nhưng tính cách của Tràng còn vương lại rất nhiều nét hồn nhiên, thậm chí ngờ ngệch của trẻ con. Tràng thường xuyên trêu đùa với lũ trẻ, rồi ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Ngoài ra, gia cảnh của Tràng cũng hết sức khốn khổ. Cha mất, chỉ còn lại hai mẹ con Tràng sống với nhau, ngôi nhà nơi hai mẹ con ở dúm dó, siêu vẹo và mảnh vườn lổn nhổn đầy cỏ dại. Không chỉ vậy, Tràng còn là dân ngụ cư, thường bị mọi người coi thường, khinh rẻ, không được phân chia ruộng đất, không được sinh hoạt cùng cộng đồng. Bằng cái nhìn đầy cảm thương, Kim Lân đã ghi lại hình ảnh lam lũ, vất vả của Tràng. Từ tính cách cho đến gia cảnh, nghề nghiệp cho thấy Tràng hội tụ đầy đủ nguy cơ ế người hội tụ đầy đủ nguy cơ ế vợ như Tràng nhưng lại lấy được vợ hết sức nhanh chóng, chỉ qua hai lần gặp gỡ. Lần đầu, Tràng kéo xe thóc liên đoàn lên tỉnh, Tràng chỉ hát mấy câu vu vơ “Muốn ăn cơm trắng mới giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Nhưng câu hò đã nhắc đến miếng ăn, vô tình tác động mạnh đến người đàn bà đã bị bỏ đói lâu ngày, bởi vậy, thị đã ton ton chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Lần thứ hai, chỉ mất bốn bát bánh đúc và một câu nói đùa “Này, nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Từ giây phút đó Tràng chính thức có một người vợ. Câu chuyện Tràng lấy vợ quả là một câu chuyện bi hài. Hài là ở chỗ Tràng lấy được vợ quá đỗi nhanh chóng dễ dàng. Bi là ở chỗ nạn đói đang hoành hành, Tràng còn chưa lo nổi thân mình, lại đi đèo bòng thêm một người khác, không chỉ vậy, đám cưới là sự kiện quan trọng của đời người lại diễn ra hết sức qua loa, chóng dù sự kiện Tràng lấy vợ diễn ra vô cùng chóng vánh, không có sự chuẩn bị chu đáo, nhưng lại có tác động rất mạnh, khiến cho Tràng có sự thay đổi toàn diện. Trước hết là sự thay đổi tâm lí. Sau khi cô vợ nhặt cùng Tràng về nhà, tâm lí Tràng có sự biến đổi liên tục, đi từ ngạc nhiên đến sung sướng, hạnh phúc, choáng ngợp. Tràng ngạc nhiên bởi không ngờ câu nói đùa của mình, lại khiến người đàn bà kia theo Tràng về thật. Tràng bất giác lo sợ, vì bản thân còn chưa lo xong, lại đèo bòng thêm một người nữa, trong hoàn cảnh nạn đói đang diễn ra tràn lan. Nhưng niềm vui sướng ngập tràn, đã choán lấy tâm chí Tràng, khiến Tràng quyết định bỏ ra hai hào mua dầu về thắp với tâm niệm “Vợ viếc gì thì cũng phải sáng sủa một tí chứ”. Câu nói có phần quê kệch nhưng lại cho thấy sự tôn trọng của Tràng với vợ, đồng thời hành động đó còn mang ý nghĩa thắp lên niềm tin, hi vọng vào tương lai. Sự xuất hiện của người vợ, đã đem đến cho cuộc sống của Tràng những màu sắc mới mẻ, tương vui cùng với đó là cả niềm tin, hi vọng vào tương chỉ vậy, Tràng còn có sự thay đổi về tính cách. Trước hết là trong cách ứng xử với lũ trẻ, nếu thường ngày Tràng là bạn của chúng, thì hôm nay khi về cùng cô vợ nhặt, Tràng đã nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không hài lòng với chúng. Sự vô tâm, vô tính hàng ngày biến mất thay vào đó là dáng điệu của một người đàn ông trưởng thành. Sự thay đổi lớn lao nhất chính là khi Tràng giới thiệu vợ với mẹ. Tràng đã giới thiệu vô cùng trang trọng “Nhà tôi đó mới về làm bạn với tôi đây u ạ”, “Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với nhau… chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Ai có thể ngờ rằng một con người quê mùa, cục mịch, ít học lại có thể nói ra những lời sâu sắc, ý nghĩa đến vậy. Tràng đã bỏ qua cái chóng vánh của cuộc hôn nhân, để tránh sự xấu hổ cho cô vợ. Dùng những lời lẽ trang trọng nhất duyên số, kiếp để lí giải cho việc lấy vợ của mình. Câu nói tuy giản dị nhưng cho thấy sự trưởng thành trong suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật này, Tràng đã là một người đàn ông thực thay đổi toàn diện và có ý nghĩa nhất trong suy nghĩ và tính cách của Tràng được thể hiện trong buổi sáng đầu tiên khi Tràng có vợ. Sự sung sướng hạnh phúc của người đàn ông có vợ “êm ái, lửng lơ như vừa bước từ giấc mơ ra”. Cùng với đó là sự thay đổi bất ngờ, nhanh chóng, Tràng nhận thức được trách nhiệm của bản thân với gia đình, vun vén hạnh phúc cho tổ ấm của mình. Tràng không chỉ dừng lại ở việc biết lo lắng cho mình, mà còn biết lo lắng cho người khác, không còn sống qua quýt tạm bợ, mà biết lo nghĩ cho tương cùng là sự thay đổi trong nhận thức. Cuối tác phẩm hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới, cùng sự kiện phá kho thóc nhất, để lại trong Tràng nỗi ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, trước đó Tràng hoang mang, sợ hãi. Điều này cho thấy trong Tràng có sự thay đổi nhận thức, việc đi theo Đảng, cách mạng như một hệ quả tất yếu để đem lại tự do cho bản thân, và tương lai tốt đẹp cho cả gia đã được nhà văn Kim Lân đặt trong tình huống truyện độc đáo nhặt được vợ, qua đó khắc họa tính cách, tâm lí nhân vật. Nghệ thuật phân tích, miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tự nhiên, hợp lí. Ngôn ngữ tự nhiên, nhuần nhuyễn, giản thêm Cách Rút Gọn Biểu Thức A I, Lý Thuyết Rút Gọn Biểu ThứcBằng ngòi bút phân tích tâm lí bậc thầy, ngôn ngữ giản dị mà điêu luyện, Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Nhân vật đã vẽ nên chân thực cuộc sống của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945. Đồng thời cũng thể hiện sự cảm thông, tin yêu của Kim Lân với số phận những người nông dân bất hạnh vào tương lai tươi sáng của tầm và tuyển chọn Văn mẫu lớp 12 hay nhất / THPT Sóc TrăngCác bạn vừa tham khảo mẫu dàn ý chi tiết phân tích nhân vật Tràng cùng bài văn mẫu do THPT Sóc Trăng tổng hợp và biên soạn giúp em nắm được cách làm bài và mở rộng vốn từ ngữ thêm đa dạng, phong phú hơn. Đừng quên còn rất nhiều những bài văn mẫu hay lớp 12, những nội dung hướng dẫn hữu ích giúp bạn học tốt môn Văn tại đang chờ các em khám phá ! Chúc các em học tốt ! Phân tích bài Vợ nhặt– Kim Lân chi tiết. Bài Phân tích Vợ nhặt của Kim Lân dưới đây mang đến dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy cùng bài văn mẫu hay nhất được chọn lọc. Qua bài viết này Butbi giúp các em có thêm nhiều gợi ý tham khảo để củng cố kiến thức, biết cách chọn lọc những ý hay khi làm bài để đạt được kết quả cao trong các bài thi, bài kiểm tra. Phân tích bài Vợ nhặt của kim lân Ngữ văn 12 Tham khảo thêm Tác giả tác phẩm Vợ nhặt Mở bài Vợ nhặt hay nhất Kết bài Vợ nhặt hay Soạn văn 12 bài Vợ nhặt Ngữ văn 12 học kì 2 chi tiết 1. Dàn ý phân tích bài Vợ nhặt chi tiết Dàn ý triển khai Mở bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ngòi bút của ông tập trung viết về cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân lao động. – “Vợ nhặt” được rút từ tập “Con chó xấu xí”, đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của ông viết về người nông dân, qua đó miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Dàn ý phân tích phần Thân bài tác phẩm Vợ nhặt a Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt” nghĩa là nhặt được vợ, nói lên sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm khốn cùng của con người trong nạn đói. b Tình huống truyện – Tình huống truyện Tràng – một chàng trai nghèo, xấu xí, mồ côi cha, ở với mẹ trong một xóm ngụ cư bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không. – Đây là một tình huống vô cùng độc đáo và bất ngờ với chính bản thân Tràng vì hoàn cảnh của Tràng rất khó mà lấy được vợ, tự dưng lại có vợ theo không về nên còn tự ngờ ngợ mình đã có vợ ư, với những người dân xung quanh thắc mắc bàn tán, với bà cụ Tứ thì vui có buồn có tủi nhục có. – Tình huống éo le trong hoàn cảnh gia đình và xã hội lúc bấy giờ không cho phép Tràng lấy vợ, bởi cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, nghèo khổ khó có thể làm chỗ dựa cho nhau. c Nhân vật Tràng – Hoàn cảnh gia đình Tràng là dân ngụ cư bị người khác khinh bỉ, cha mất sớm ở với mẹ già trong một ngôi nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, … – Ngoại hình xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, hai bên quai thì hàm bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, ăn nói vụng về, … * Hai lần gặp gỡ và quyết định nhặt vợ – Lần gặp thứ nhất qua lời hò vui của Tràng, đây chỉ là lời nói đùa của người lao động cho bớt mệt chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình. – Lần gặp thứ 2 Khi gặp lại, Tràng bị cô gái mắng, anh chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù chính anh cũng không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành, chất phác, tốt bụng. Khi người đàn bà quyết định theo về Tràng cũng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm một miệng ăn, nhưng rồi lại tặc lưỡi “chậc, kệ”. Điều đó nói lên rằng đây không phải quyết định của kẻ bồng bột, thiếu suy nghĩ mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao có được hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ. Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh để mua đồ nói lên sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ. * Trên đường về nhà Vẻ mặt Tràng vui vẻ “có cái gì phơn phởn khác thường”, miệng “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” … Đó là tâm trạng hạnh phúc, vui sướng và hãnh diện. Mua dầu về thắp sáng ngôi nhà để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa. * Khi về đến nhà Tràng xăm xăm bước vào trước để dọn dẹp sơ qua, vội thanh minh về sự bừa bộn vì trong nhà thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng lại rất chân thật, mộc mạc. Khi bà cụ Tứ – mẹ Tràng chưa về, lúc này Tràng lại có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng khi nhìn thấy gia cảnh khó khăn của mình người vợ sẽ bỏ đi, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay. Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về nhà để có thể thưa chuyện vì dù trong cái cảnh đói khổ như thế thì vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Điều này thể hiện Tràng là đứa con biết lễ nghĩa. Khi bà cụ Tứ về Trang thưa chuyện với mẹ một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, lo lắng căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý đồng ý lòng Tràng mới thở phào, ngực nhẹ hẳn đi. * Sáng hôm sau khi thức dậy Tràng nhận thấy sự thay đổi lớn trong ngôi nhà sân vườn, ang nước được quét dọn sạch sẽ, quần áo, …, Tràng nhận ra vai trò và vị trí của ng với gia đình này. Lúc ăn cơm Tràng nghĩ về hình ảnh đám người đói và lá cờ đang bay phấp phới. Đó chính là hình ảnh báo hiệu sự thay đổi và con đường đi mới. ⇒ Nhận xét Từ khi nhặt được vợ anh cu Tràng đã có những sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, tác giả ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất của những con người trong cái đói. d Nhân vật người vợ nhặt * Lai lịch – Là người không có quê hương gia đình có thể thấy nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến biết bao con người phải rời xa quê hương, gia đình. – Đến cái tên cũng không có và chỉ được gọi qua cái tên “vợ nhặt” qua đó thấy được sự rẻ mạt của con người trong cảnh đói. * Chân dung, ngoại hình – Ngoại hình quần áo thì tả tơi như tổ đỉa, người thì gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. – Lần gặp thứ nhất khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã chẳng ngần ngại mà vui vẻ chạy ra giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo. – Lần gặp thứ hai Thị sưng sỉa mắng Tràng, khi được Tràng mời ăn trầu thì từ chối để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn bánh đúc thì lập tức ngồi sà xuống, mắt sáng lên và “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Khi nghe Tràng nói đùa rằng “đằng ấy có về với tớ … cùng về”, thị đã chẳng suy nghĩ mà theo về thật bởi trong cái đói khổ, đây chính là cơ hội duy nhất để thị bấu víu lấy sự sống. ⇒ Nhận xét Cái đói, cái khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà làm thay đổi cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị bởi đó không phải là bản chất conn người mà chỉ do cái đói xô đẩy. * Phẩm chất – Luôn tràn đầy sức sống mãnh liệt, khát khao được sống Quyết định theo Tràng về làm vợ mặc dù chưa biết gì về Tràng, chấp nhận theo không về mà chẳng cần sính lễ vì chỉ có như thế thì thị mới không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ. Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ của Tràng, trái ngược với lời tuyên bố “rích bố cu”, thị đã “nén một tiếng thở dài”, dù buồn, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống tiếp. – Thị là người con gái ý tứ và nết na Trên đường về, thị cũng rón rén e ấp đi phía sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình. Về đến nhà, Tràng đon đả mời Thị ngồi nhưng chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay thì cứ ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ, biết điều khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình. Khi gặp mẹ chồng – bà cụ Tứ, ngoài câu chào thị chỉ lặng yên cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng ngùng. Sáng hôm sau, thị dậy sớm dọn dẹp quét tước nhà cửa, lúc này Thị không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà thay vào đó là vẻ hiền hậu, đúng mực. Lúc ăn cơm, mới nhìn nồi cháo cám “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng để không làm bà buồn. ⇒ Nhận xét Cái đói, cái khổ có thể cướp đi nhân phẩm trong một khoảnh khắc nào đó chứ vĩnh viễn không thể cướp đi tâm hồn con người. – Thị còn là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai kể chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng, đem niềm tin tới cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng. – Nêu cảm nhận của bản thân về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích. e Nhân vật bà cụ Tứ – Giới thiệu nhân vật, ngoại hình, dáng vẻ dáng đi lọm khọm, chậm chạp, chân tay run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, miệng lúc nào cũng lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già. – Bà bất ngờ trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch và ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà. – Khi bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, thì “mắt bà nhoà đi” bà thương cho đứa con trai phải lấy vợ nhặt, mà phải trong cảnh đói khát như lúc bấy giờ mới lấy được vợ, cũng thương cho người đàn bà khốn khổ kia cùng đường mới phải lấy con trai bà. – Bà đối xử hiền hòa với nàng dâu mới nhẹ nhàng nói với con dâu “Con ngồi đây … đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, khuyên răn, bảo ban các con làm ăn… – Nhận xét bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, nhân hậu, chất phác và có lòng yêu thương con cái vô bờ. Dàn ý Kết bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt – Khái quát giá trị nghệ thuật của truyện ngắn xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách một cách tự nhiên; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, gần gũi. – Giá trị nhân đạo của tác phẩm nhà văn đã phản ánh chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng ca ngợi bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ. Sơ đồ tư duy phân tích tác phẩm Vợ nhặt Tổng Quát Dưới đây là hướng dẫn phân tích bài Vợ nhặt tổng quát thông qua sơ đồ tư duy dàn ý triển khai mơ bài, thân bài và kết bài. Cùng tham khảo nhé! Sơ đồ tư duy phân tích bài Vợ nhặt tổng quát Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt Phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt trong qua sơ đồ tư duy kiến thức dưới đây Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt thông qua tóm tắt nội dung về nhân vật dưới đây Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt Cùng butbi tham khảo Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong bài Vợ nhặt nhé! Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt Sơ đồ tư duy phân tích giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của Vợ nhặt Nắm vững kiến thức thông qua Sơ đồ tư duy phân tích giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của Vợ nhặt. Sơ đồ tư duy phân tích giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của Vợ nhặt Sơ đồ tư duy phân tích tình huống truyện trong vợ nhặt Sơ đồ tư duy phân tích tình huống truyện trong bài vợ nhặt để các bạn tham khảo Sơ đồ tư duy phân tích tình huống truyện trong vợ nhặt 3. Bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Vợ nhặt hay nhất được chọn lọc Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh ra ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên ông chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm kiếm sống. Ông có sự đam mê và yêu thích văn chương, nên đã bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy cảm hứng từ cuộc sống lam lũ của người nông dân nghèo hoặc các cảnh sinh hoạt văn hóa truyền thống ở vùng thôn quê. Sau Cách mạng tháng Tám, những tác phẩm truyện ngắn của ông đều viết về làng quê, đây là mảng hiện thực mà ông am hiểu sâu sắc. Nguyên Hồng đã từng nhận xét thì Kim Lân rằng ông là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu nguyên thủy nhất của cuộc sống nông thôn. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm đặc sắc có giá trị và “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông, tác phẩm được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng mãi cho đến sau khi hòa bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Lấy bối cảnh là nạn đói năm khủng khiếp 1945, “Vợ nhặt” đã khắc họa một cách trần trụi cuộc sống ngột ngạt, bức bối cùng cái nghèo khó, bần cùng của nhân dân ta thời bấy giờ. Cái đói, cái khổ đã hiện hữu thành hình, thành màu, thành mùi và thành vị khiến con người ta bị dồn tới mức đường cùng, đẩy họ đến bên bờ vực thẳm của cái chết. Chứng kiến thảm cảnh kinh hoàng ấy, ngòi bút của Kim Lân đã cất lên tiếng đau đớn của niềm cảm thương trước những số phận bất hạnh. Đồng thời qua đó, ông cũng lên tiếng tố cáo tội ác tày trời của thực dân Pháp và bọn phát xít Nhật, ca ngợi khát vọng sống, khát vọng được hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của con người. Ngay từ nhan đề tác phẩm, Kim Lân đã cho người đọc thấy sự tò mò bởi hai từ “Vợ nhặt”, vợ nhặt tức là người vợ được nhặt về mà không cần cưới xin. Nhưng cũng chính nhan đề ấy là “thắt nút” của câu chuyện, khắc họa một cách khá đầy đủ về số phận bất hạnh của các nhân vật. Qua đó phản ánh số phận thê thảm, tủi nhục và sự rẻ rúng của con người trong nạn đói khủng khiếp ấy. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Tràng – một người thanh niên nghèo khổ, có ngoại hình xấu xí nhưng chỉ với vài ba câu hò bông đùa và mấy bát bánh đúc mà lại nhặt được cô vợ đang sống dở chết dở vì đói. Họ đã kết lên mối nhân duyên giữa bóng đêm bao trùm của nạn đói. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong cái bóng tối lạnh lẽo với tiếng khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vọng lại. Bữa cơm giản dị, thô sơ với rau chuối và nồi cháo cám. Bữa cơm đầu tiên ấy do chính tay me chồng chuẩn bị để đãi con dâu và con trai. Khi ăn, ba mẹ con xoay sang câu chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật để chia cho người dân nghèo và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đưa ra quan niệm rằng “Tình huống truyện là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là nó sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống của con người”. Trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng một tình huống hết sức độc đáo đó là anh chàng ngụ cư nghèo khổ, xấu xí như Tràng mà lại “nhặt” được vợ chỉ bằng vài ba câu nói bông đùa và mấy bát bánh đúc. Điều đó không chỉ gây ngạc nhiên cho những người dân làng xung quanh, cho mẹ Tràng mà còn cho chính bản thân của anh ta nữa. Đây là một tình huống éo le, cảm động nhưng lại hết sức hợp lí bởi chính cái nạn đói đã làm cho những mảnh đời cơ cực trôi dạt vào với nhau và họ mới nên vợ nên chồng. Qua đó tình huống truyện đã làm nổi bật lên giá trị hiện thực cũng như giá trị nhân đạo sâu sắc nạn đói khủng khiếp ấy đã đẩy con người tới cận kề cái chết khiến giá trị con người trở nên rẻ rúng, đồng thời cũng làm nổi bật hình ảnh các nhân vật. Trước hết, truyện đã tái hiện lên hoàn cảnh cơ cực, khốn khó, nghèo đói đến xác xơ tiêu điều của con người qua hình ảnh của những người dân làng đặc biệt là mẹ con Tràng. Cái đói ập đến ngôi làng giống như một con quỷ dữ nuốt chửng tính mạng của biết bao nhiêu con người, nó đã biến không khí vốn trong lành, tươi mát của một làng quê thanh bình, yên ả thành không khí ẩm ướt hôi thối của mùi rác rưởi và xác chết “Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Cái đói, cái khổ ấy đã cướp đi tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên của những đứa trẻ trong làng. Cách đó không lâu, trong mỗi buổi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu lại xung quanh anh, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa thì cù, đứa thì kéo khiến cho cái xóm ấy mỗi lúc chiều lại xôn xao, nhộn nhịp lên một lúc. Nhưng niềm vui nhỏ nhoi ấy bây giờ cũng không còn nữa, nụ cười tắt hẳn trên môi chúng. Chúng ngồi ủ rũ, mặt buồn so dưới những xó đường, không nhúc nhích. Còn Tràng – nhân vật trung tâm của truyện là một thanh niên ngụ cư nghèo, có ngoại hình xấu xí, thô kệch sống hiu quạnh với người mẹ già trong túp lều dựng trên mảnh vườn đầy cỏ dại. Sống với thân phận là dân ngụ cư, họ bị dân làng coi thường, khinh bỉ, làm những công việc hèn hạ như đầy tớ. Và giống như một định mệnh của cái kiếp nghèo khổ, đói rách, chàng đã “nhặt” được một cô vợ – một người phụ nữ không tên, không tuổi cũng chẳng có quê quán, nhà cửa. Thị bị cái đói đẩy ra ngoài đường, nhập vào với dòng người tha hương cầu thực, ngồi vêu ra ở kho thóc để nhặt những hạt rơi hạt vãi, sống nơi đầu đường xó chợ. Bằng ngòi bút tả thực, Kim Lân đã khắc họa bức tranh của “ngôi làng đói” trong năm 1945 một cách chân thực mà trần trụi. Nhưng cũng chính trong cái “hiểm nghèo” ấy, con người đã bộc lộ ra những phẩm chất tốt đẹp Đó chính là tình yêu giữa con người với con người, niềm khao khát được sống, được hạnh phúc và niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói “Có gì đẹp trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau”. Vâng, tình yêu chính là thứ duy nhất còn xót lại khi con người ta đã mất đi tất cả, đã rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn cùng. Trong cái hoàn cảnh đói khát khủng khiếp ấy, nhân vật Tràng hiện lên với sự tốt bụng của một chàng trai sẵn sàng chia sẻ miếng ăn cho người phụ nữ xa lạ mặc dù bản thân anh cũng chẳng dư dả gì. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với lòng nhân hậu, khoan dung, hiền từ và tình yêu thương con sâu sắc. Cuộc đời sẽ lặng lẽ, âm thầm trôi qua nếu không gặp sự kiện Tràng đưa một người phụ nữ xa lạ về làm vợ. Kim Lân đã dùng ngòi bút tinh tế của mình để thể hiện sâu sắc tâm lí của người mẹ nghèo khổ trước sự kiện con trai bỗng dưng có vợ bà cụ đã hết sức ngạc nhiên. Khi nghe người phụ nữ kia chào bà bằng “u” mà vẫn không hiểu, mắt nhìn nhòe đi mà vẫn không tin, trong đầu bà xuất hiện hàng loạt những câu hỏi “Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?” . Đó là bởi vì bà chưa từng nghĩ một người nghèo khó, xấu xí như con trai mình lại có vợ. Bà ngạc nhiên không phải là sự hoảng hốt, lo lắng mà là niềm ngỡ ngàng trước hạnh phúc quá lớn lao bất ngờ của con trai. Khi đã hiểu ra vấn đề, thì lòng người mẹ lại chất chứa bao cơ sự, vừa thương con lại vừa xót xa cho chính mình “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Dấu ba chấm được đặt ra như ngưng đọng nỗi nghẹn ngào vì thương xót, vì tủi thân, giọt nước mắt thương con lăn dài trên gò má. Không những thế, bà còn cảm thấy lo lắng khi nghĩ về hiện thực “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Dù lo lắng là vậy nhưng khi nhìn người đàn bà tội nghiệp đang đứng vân ve tà áo thì lòng bà lại xót thương vô cùng cho người con dâu mới này. Sự nhân hậu và cảm giác yên tâm đã thay thế cho nỗi lo trong lòng bà “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tình yêu thương con của bà còn được bộc lộ trong từng suy nghĩ, từng hành động cụ thể bà đã gọi người phụ nữ là “con”. Chỉ với một từ “con” đó thôi đã cho ta hiểu rằng bà đã dang rộng vòng tay đón nhận cô con dâu này giúp con dâu bớt ngượng ngùng. Bà còn thủ thỉ tâm sự “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Hai từ “mừng lòng” ấy nói lên việc bà đã coi người con dâu đến với gia đình như một niềm vui. Bà kể về gia cảnh của mình “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng mà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Lời nói tưởng chừng như có vẻ lẩm cẩm nhưng lại rất chan thành, nhân hậu, chan hòa phá tan đi sự ngượng ngùng ban đầu. Cùng với tình yêu thương, nhà văn đã thể hiện niềm khao khát có được hạnh phúc của con người qua nhân vật Tràng và Thị – người vợ nhặt. Trước hết cái khao khát hạnh phúc của Tràng được thể hiện qua diễn biến tâm lí và hành động anh. Tràng quyết định rất nhanh chóng khi đưa người một phụ nữ xa lạ, chỉ mới gặp 2 lần về làm vợ “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ thóc gạo sau này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng” sau đó anh ta “chặc kệ”. Nhìn bên ngoài anh ta có vẻ hơi thiếu trách nhiệm, liều lĩnh nhưng tận sâu bên trong lại chứa đựng niềm khát khao hạnh phúc thường trực lớn đến mức giúp Tràng vượt lên trên cả cái đói và cái chết. Khi Tràng đưa vợ về nhà, mặc dù nghèo nhưng anh vẫn hào phóng khi đãi thị một bữa ăn no và mua cho một cái thúng. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy hiện lên trong con mắt và nụ cười tủm tỉm. Trong chốc lát Tràng đã quên đi cái nghèo đói mà tình tứ đi bên người đàn bà của mình, họ nói chuyện với nhau còn chưa hết ngượng ngùng nhưng trong họ đã nhen nhóm ngọn lửa hạnh phúc. Khi về tới nhà, Tràng vội thanh minh cho sự tuềnh toàng, lộn xộn của nhà mình do không có bàn tay chăm sóc của người phụ nữ. Khi thấy bà cụ Tứ mãi chưa về, Tràng lo lắng sốt ruột, anh đang rất mong muốn được công khai hạnh phúc của mình. Anh ta nhìn lén lút người phụ nữ kia, sợ rằng với gia cảnh nghèo khó này thị sẽ bỏ đi, sợ rằng hạnh phúc sẽ tuột khỏi tầm tay. Khi mẹ về, Tràng vui mừng chủ động giới thiệu với mẹ một cách nghiêm túc, trịnh trọng bằng hai chữ “nhà tôi”, “chúng tôi”, “nhà tôi nó về nó làm bạn với tôi”. Tâm lí của Tràng như xóa tan đi sự căng thẳng trong buổi đầu gặp mặt, anh coi đây là một việc hết sức nghiêm túc anh muốn sống lâu dài với người phụ nữ này. Cảm xúc của Tràng được bộ lộ rõ nét nhất trong buổi sáng hôm sau khi thức dậy. Một ngày mới đến với niềm hạnh phúc hân hoan, Tràng “cảm thấy êm ái lơ lửng như đi từ giấc mơ ra”. So với sự vô tâm như mọi khi thì hôm nay Tràng nhận thấy sự thay đổi khác lạ xung quanh mình. Anh thấy thật hạnh phúc khi được sống trong không khí yên bình với niềm hạnh phúc giản dị của gia đình vợ quét dọn sân nhà, mẹ thì dọn cỏ ngoài vườn. Cảnh tượng bình dị ấy đã khơi gợi trong lòng Tràng cảm giác hạnh phúc vô bờ. Không những thế Tràng nhận thấy mình cần trưởng thành và có trách nhiệm với gia đình hơn, anh cũng muốn bắt tay vào làm gì đó góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình. Bên cạnh khao khát hạnh phúc của nhân vật Tràng, gia đình nhỏ ấy còn được vun vén, đắp xây bởi khao khát của người vợ nhặt. Thị đã vượt lên trên số phận ngặt nghèo, bất hạnh để sống trọn vẹn với hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Cô liều lĩnh, bất chấp theo Tràng về làm vợ và khi về hiểu được gia cảnh của Tràng, thị ngán ngẩm thở dài nhưng vẫn muốn có một gia đình. Thành vợ, thành con dâu trong gia đình, thị bắt tay để gây dựng gia đình, cuộc sống với hai mẹ con Tràng sáng hôm sau thị dậy sớm để thu vén dọn dẹp sân vườn, nhà cửa. Nhờ có đôi bàn tay của người vợ – người phụ nữ mà mọi thứ hoàn hóa bẩn thỉu đã bị đẩy lùi, căn nhà trở nên đầm ấm, có sức sống hơn, thậm chí bản thân Tràng cũng có sự thay đổi lớn Tràng muốn trở thành người con có hiếu và người chồng có trách nhiệm. Có thể nói càng trong hoàn cảnh khó khăn, con người ta lại càng trân trọng và tìm kiếm hạnh phúc. Cùng viết về đề tài những người nông dân trong cái nghèo đói nhưng khác với những nhà văn khác, Kim Lân đã gieo vào trong tác phẩm của mình một tư tưởng mới đó là Khi con người ta bị đẩy tới bước đường cùng của cái đói, cái khổ người ta mới muốn sống hơn muốn chết. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Người “vợ nhặt” vì muốn thoát khỏi cái đói, cái chết, vì mong muốn được sống mà đã liều lĩnh theo Tràng – một người đàn ông xa lạ về làm vợ. Niềm khao khát được sống nâng lên thành niềm khát khao được hạnh phúc làm thay đổi người đàn bà này từ một người chan chát, đon đả, chảnh lỏn thành người vợ hiểu chuyện biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Ở thị toát lên một sức sống mãnh liệt nên thị làm mọi cách để được sống và sống như một con người. Cùng với đó là niềm khao khát sống, niềm tin vào tương lai của bà cụ Tứ. Dù lo lắng cho các con, dù xót xa cho cái nghèo, cái khổ nhưng bà vẫn nén lòng mình lại để động viên an ủi các con và cũng là động viên, an ủi chính mình “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà bảo ban, khuyên răn các con và cũng chủ động gây dựng cuộc sống cho mình và các con. Bản thân bà cũng đã thay đổi hoàn toàn với trước kia khác với dáng đi lom khom và khuôn mặt u ám, xám xịt hàng ngày, nay bà đã ra vào nhanh nhẹn, khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên, bà nói chuyện vui vẻ, bắt tay dọn nhà cửa. Tất cả những thay đổi của bà đều xuất phát từ tình yêu thương và khát vọng sống mãnh liệt. Qua việc tái hiện khung cảnh nghèo đói, khốn cùng của con người cùng thế giới nội tâm nhân vật, nhà văn đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân đã chèn ép, vùi dập con người đồng thời hướng con người tìm tới con đường cách mạng. Điều đó thể hiện qua câu chuyện của người vợ nhặt “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa”. Và kết thúc tác phẩm là hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” đó như là lời cảnh tỉnh của nhà văn về con đường mà người nông dân cần đi đó chính là con đường cách mạng. Truyện ngắn “Vợ nhặt” để lại những rung cảm, những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc không chỉ bởi niềm cảm thương, xót xa, niềm khao khát bình dị của con người mà còn bởi nghệ thuật độc đáo. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi mang đậm màu sắc của vùng đồng bằng trung du bắc bộ. Bên cạnh đó là nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo, hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc ngay từ nhan đề. Qua đó tác phẩm đã thể hiện được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mạnh liệt cùng niềm tin vào một tương lai tươi sáng của con người trong nạn đói. Mong rằng bài viết trên đây mà Butbi chia sẻ cho các bạn sẽ là tài liệu hữu ích trong việc học tập và ôn luyện ngữ văn 12. Tham khảo thêm Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt

luận điểm bài vợ nhặt